Các làng nghề gốm sứ Việt Nam luôn ghi đậm những dấu ấn lịch sử trong văn hóa dân tộc. Cùng với những bước đi thăng trầm của đất nước, gốm Việt vẫn tồn tại và phát triển, đem lại rất nhiều tiện ích cho đời sống. Hãy cùng Sàn Gốm Sứ Bát Tràng điểm qua các làng gốm Việt Nam tiêu biểu dưới đây nhé!
Làng gốm Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội)
Nội dung
Làng gốm Bát Tràng xuất hiện vào khoảng thế kỷ 15, ngay bên cạnh dòng sông Hồng phù sa. Lúc đó, Bát Tràng là một gò đất cao gần cạnh sông. Rất thuận tiện cho việc làm gốm và giao thông đi lại.
Trải qua nhiều biến cố, làng gốm xưa vẫn bám trụ vững chắc, ngày càng phát triển. Ngày nay, làng gốm Bát Tràng nằm tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Qua thời gian, gốm Bát Tràng vẫn giữ được những dòng men cổ. Công đoạn tạo dáng đều được làm bằng tay nên xương gốm khá dày, cứng cáp, cầm chắc tay. Lớp men đặc trưng thường ngả màu ngà, đục. Bên cạnh đó còn có một số dòng men riêng độc đáo chỉ có tại Bát Tràng như men xanh, men rạn.
Bề dày lịch sử của làng gốm Bát Tràng đã hun đúc một nền văn hóa phong phú. Vì thế các sản phẩm gốm Bát Tràng luôn được tin yêu và lựa chọn.
Làng gốm Chu Đậu (huyện Nam Sách, Hải Dương)
Đây là một trong số các làng nghề gốm sứ Việt Nam xuất hiện sớm nhất. Thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương. Ra đời vào thế kỷ 13 và phát triển mạnh từ thế kỷ 14. Nhưng đáng tiếc là vào thế kỷ 17, do chiến tranh loạn lạc mà làng gốm này đã bị suy tàn và thất truyền.
Cho đến năm 2001, gốm Chu Đậu được nỗ lực nghiên cứu và phục hồi lại kỹ thuật, chất men, kiểu dáng. Từ đó dần trở mình mạnh mẽ tiếp bút viết lại thời hoàng kim cho làng gốm Chu Đậu.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc giá trị Phật giáo và Nho giáo, không khó để bắt gặp dấu ấn nhà Phật, bút tích của Lão Tử trong nghệ thuật gốm làng Chu Đậu. Có thể nói đây là điểm khác biệt của người làm gốm nơi đây so với nghệ nhân ở các làng gốm khác.
Gốm ở đây làm từ đất sét trắng vùng Trúc Thôn thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Để gốm đạt được độ trong thuần khiết, người thợ phải lấy đất sét đem đi hòa trong nước và lọc. Sau đó mới đến quy trình làm gốm.
Vì vậy, gốm làng Chu Đậu có chất men trắng rất trong. Hoa văn xanh lam nhờ sử dụng men trắng chàm. Hoa văn đỏ nâu, xanh lục vàng nhờ sử dụng men tam thái. Kiểu dáng và họa tiết của hoa văn được thể hiện qua nhiều hình thức như vẽ, khắc, họa, đắp nổi đều phóng khoáng, chân tình.
Làng gốm Phù Lãng (huyện Quế Võ, Bắc Ninh)
Làng gốm Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình hình thành và phát triển cùng với làng Bát Tràng. Nhưng những sản phẩm của gốm Phù Lãng chủ yếu là đồ gia dụng làm từ đất sét đỏ và được tạo hình thủ công trên bàn xoay.
Gốm Phù Lãng là gốm men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm… Dân gian hay gọi là men da lươn. Chính đặc điểm này giúp cho Phù Lãng khác biệt với các làng nghề gốm sứ Việt Nam khác.
Bên cạnh đó, cách thợ làm gốm cũng rất đặc trưng. Họ dùng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong. Màu men tự nhiên, bền màu, độc đáo. Kiểu dáng mộc mạc, khỏe khoắn, rất đậm đà văn hóa bản địa.
Làng gốm Thanh Hà (Hội An)
Sinh sau đẻ muộn so với Phù Lãng, với tuổi đời khoảng 500 năm, làng gốm Thanh Hà nằm tại Hội An vẫn nổi tiếng với các sản phẩm gốm đất nung bền đẹp.
Với nguyên liệu dân dã từ địa phương, người thợ lấy đất sét nâu dọc sông thu Bồn làm chất liệu chính. Loại đất sét nâu này có độ dẻo và kết dính cao.
Hầu hết những sản phẩm của làng gốm Thanh Hà cho ra màu cam thẫm, nâu đỏ nhẹ và xương gốm xốp. Các sản phẩm được tạo bằng khuôn và trang trí khắc lộng.
Khi bạn có dịp đến với Quảng Nam và tham quan làng Gốm, sẽ có thể thấy những sản phẩm chủ yếu như tranh, đèn, tượng trang trí…
Làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang)
Phát triển cùng giai đoạn với làng Bát Tràng và có những đặc điểm khá tương đồng với làng gốm Phù Lãng. Tuy nhiên, nét đặc trưng của gốm Thổ Hà là không dùng men. Sản phẩm được nung ở nhiệt độ cao tự chảy men và thành sành.
Gốm có màu nâu sẫm, một sắc tím than trầm. Gõ thành tiếng cứng như thép gang. Bền và giữ màu tốt theo thời gian sử dụng. Nổi tiếng với những sản phẩm làm từ đất sét vàng, sét xanh, ít sạn và tạp chất dễ tạo hình, gốm mộc phủ men da lươn và chủ yếu là lu, chậu sành…
Hiện nay gốm Thổ Hà ở Bắc Giang rất được lòng thị trường bởi đặc tính chắc khỏe mà ít loại gốm nào sánh kịp.
Làng gốm Phước Tích (Thừa Thiên – Huế)
Nguyên liệu chủ yếu để tạo ra những sản phẩm gốm sứ tại làng gốm Phước Tích là từ loại đất sét màu xám đen, khá dẻo và dính. Làng nghề này chủ yếu sản xuất gốm gia dụng như lu, chậu, nồi đất, ấm…Với hoa văn đơn giản, hoa tiết bình dị.
Phương thức làm gốm của người thợ Phước Tích rất thô sơ như thêu, nề đất, bàn chuốt, bàn xoay hoàn toàn bằng thủ công và tạo hình hoàn toàn bằng tay. Lò nung được dùng chủ yếu là lò sấy và lò ngửa.
Gốm Phước Tích từ xưa là làng nghề phục vụ cho Hoàng gia nhà Nguyễn. Nhưng theo thời gian đã dần suy tàn. Hiện tại, các nhà chức trách đang nỗ lực khôi phục làng nghề Phước Tích theo hướng sản xuất mỹ nghệ, nhưng chưa có kết quả khả quan.
Làng gốm Bàu Trúc (Bình Thuận)
Làng gốm Bàu Trúc là làng gốm sứ của người Chăm và thuộc loại cổ nhất trong khu vực Đông Nam Á. Gốm của người Chăm đã từng đạt tới thời kỳ đỉnh cao của văn hóa gốm. Không ít các di tích khai quật đã chứng minh điều đó.
Gốm Bàu Trúc không phủ men và mang đậm văn hóa bản địa. Hoa văn chạm trổ là những đường khắc vạch sông nước, chấm vỏ sò, hoa văn móng tay mộc mạc, quen thuộc.
Sản phẩm gốm có màu xương đất và không đồng đều. Vì trong quá trình nung lửa bị cháy táp nhiều. Bên cạnh đó, gốm Bàu Trúc không nung trong lò mà nung ngoài trời bởi củi và rơm từ 700 – 900 độ C.
Làng gốm Cây Mai (TP. Hồ Chí Minh)
Gốm Cây Mai nổi lên ở vùng Sài Gòn – Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 19. Đây là dòng gốm mỹ thuật do nghệ nhân người Hoa Chợ Lớn chế tác và phát triển cùng những thăm trầm của lịch sử cho đến ngày nay.
Căn cứ vào cội nguồn, giới nghiên cứu còn gọi gốm Cây Mai là gốm Sài Gòn nhằm phân biệt với các làng gốm Việt Nam khác. Làng gốm đa dạng sản phẩm và mang tính đặc trưng riêng.
Chúng có sự kết hợp giữa các màu sắc nổi bật như: coban, xanh rêu, nâu da lươn. Mang đến sự tinh tế trong từng sản phẩm. Cho đến nay, gốm Cây Mai đã không còn tồn tại. Dù vậy bạn vẫn có thể bắt gặp chúng ở những bức tường ở một số chùa của quận 5, quận 6.
Làng gốm Biên Hòa (Đồng Nai)
Gốm Biên Hòa là sự kết hợp giữa gốm Cây Mai và nghệ thuật trang trí gốm nước Pháp. Được làm từ cao lanh và đất sét màu. Những sản phẩm chủ yếu là chậu, voi, con thú hay tượng.
Không như các làng gồm ở Đồng bằng Sông Hồng, làng gốm Biên Hòa nổi tiếng bởi nghệ thuật khắc chìm, vẽ men kết hợp với màu men tạo nên một sản phẩm độc đáo, tinh xảo.
Hơn nữa gốm Biên Hòa là loại xốp, có xương đất màu ngà. Thợ gốm không nung với nhiệt độ lớn như các làng nghề gốm sứ Việt Nam khác. Họ chỉ nung nhẹ trên lửa để màu gốm vẫn nguyên sơ như vẻ ban đầu.
Làng gốm Vĩnh Long (Vĩnh Long)
Làng gốm Vĩnh Long nằm dọc bờ sông Cổ Chiên. Với hàng nghìn lò gạch, lò gốm chen chúc nhau như nấm sau mưa, nối dài hàng chục km. Những dòng phù sa tụ lại Vĩnh Long góp phần hình thành cho nơi đây những mỏ đất sét quý giá.
Tận dụng lợi thế địa phương, gốm Vĩnh Long có nguyên liệu chính là đất sét đỏ. Với đặc tính nhiễm phèn nên khi nung xong thì gốm Vĩnh Long thường xuất hiện các vân trắng. Ngoài ra, đất Vĩnh Long chỉ kết khối ở 900 độ C. Những đặc điểm này đã tạo nên nét rất riêng cho làng nghề nơi đây.
Sản phẩm chủ yếu của làng gốm là đồ gia dụng như chậu, chum, vãi, khạp. Nhằm mục đích phục vụ cho đời sống và một vài loại có giá trị xuất khẩu.
Làng gốm Lái Thiêu – Tân Phước Khánh (Bình Dương)
Làng Gốm Lái Thiêu – Tân Phước Khánh – Thủ Dầu Một (Bình Dương) xuất hiện kế thừa tinh hoa của gốm Cây Mai vào cuối thế kỷ 19. Nhờ vào nguồn đất sét cao lanh và nguyên liệu củi đốt dồi dào sẵn có nên đã hình thành nên làng gốm sứ.
Tuy nhiên, ngày nay, Gốm Lái Thiêu đã không còn tồn tại. Thay vào đó là sự phát triển theo quy mô công nghiệp và xu hướng thị trường. Vậy nên, những dấu tích cũ của làng gốm Lái Thiêu hầu như không còn.
Lúc gốm Lái Thiêu hưng thịnh, tất cả các sản phẩm đều được làm bằng tay và nung bằng lò củi truyền thống. Vết tích để lại chỉ cho biết gốm Lái Thiêu chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt thường ngày ở vùng Đông Nam Bộ.
Hiện nay, sản phẩm định hướng xuất khẩu nên gốm Bình Dương đã đi theo hướng sản xuất công nghiệp. Đầu tư máy móc thiết bị hiện đại nhằm mang đến những sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn cao.
Làng gốm Khmer (An Giang)
Gốm Khmer có thể nói là gốm mùa vụ bởi việc làm gốm thường diễn ra lúc nông nhàn. Bạn sẽ thấy điều khác biệt ở đây chính là sẽ ít có sự tham gia của người đàn ông. Bởi công việc này hầu như do những người phụ nữ lớn tuổi và có kinh nghiệm đảm nhiệm.
Phụ nữ Khmer sẽ lấy đất ở ven núi Nam Quy – đất sét xám pha với cát mịn để làm gốm. Họ không dùng bàn xoay, mà chỉ dùng một mặt bàn nhỏ, phẳng để làm các công đoạn tạo hình. Đây cũng là kỹ thuật làm gốm khá nguyên thuỷ còn lưu giữ ở một số ít các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Gốm nung có màu đỏ nhạt hoặc vàng sậm, độ nung thấp. Nghệ nhân nơi đây chú trọng đến vẻ nguyên sơ và hoang dã của sản phẩm hơn là các làng nghề gốm sứ Việt Nam khác.
Vì vậy, gốm cổ truyền Khmer mang đậm nét văn hóa hòa quyện giữa hồn đất và hồn người Khmer trên mảnh đất Việt. Khi đến với làng gốm Khmer, người xem sẽ cảm nhận được sự chất phác chân thật của người bản địa qua những tác phẩm gốm sứ mộc mạc.
Các làng gốm sứ cổ truyền vẫn sống mãi với thời gian
Thăng trầm của thời gian và lịch sử lấy đi một vài nét trong văn hóa gốm. Nhưng cũng tạo cơ hội cho các làng nghề gốm sứ Việt Nam tiếp tục kế thừa tinh hoa và phát triển đi lên. Dù là hưng thịnh hay suy tàn thì những làng gốm Việt vẫn có những con người, vì văn hóa dân tộc mà không ngừng nâng cao tay nghề và chất lượng sản phẩm của làng họ. Tất cả làm nên bản đồ làng gốm Việt Nam vô cùng đặc sắc và đáng quý mà Sàn Gốm sứ đã chia sẻ ở trên.
Thiếu gốm Đông Triều
Vâng chúng tôi sẽ tìm hiểu và bổ sung ạ !